Chủ Nhật, 30 tháng 7, 2017

CHAMOMILE - CÚC BA TƯ



CHAMOMILE

(CÚC BA TƯ)







“Like the Chamomile bed, the more it is trodden, the more it will spread”.

Chamomile là một loài cây nhỏ khiêm tốn, với những cánh hoa thanh khiết giống như bông cúc nhỏ, những chiếc lá dạng lông chim xanh bóng, mùi hương dịu nhẹ tựa trái cây. Từ mùi hương này mà hình thành tên gọi Chamomile - Táo đất (Khamaemelon: Khamai = on the ground, melon = apple).

Trái với bề ngoài khiêm tốn, Chamomile ẩn chứa một sức sống mãnh liệt. Là loài cây mọc trên những bãi cỏ và bãi cát, Chamomile thường xuyên là nạn nhân của những bầy gia súc và những bàn chân đi qua. Chamomile mọc thấp hơn, chặt hơn, nỗ lực để tồn tại, để từ đó nở ra những bông Chamomile thanh khiết.

Là loài hoa mọc tự nhiên ở Anh, sau đó được các nhà làm vườn đưa về trồng làm cảnh và làm thuốc. Những bãi cỏ phủ bởi Chamomile chính là đặc trưng của những khu vườn thời Nữ hoàng Elizabeth. Vào thời Nữ hoàng Victoria, Chamomile từng được xem là thuốc chữa bách bệnh. Đương nhiên ngày nay điều đó không còn đúng, nhưng ý nghĩa về sức sống mạnh mẽ của Chamomile vẫn không mất đi. Người ta tin rằng một bó Chamomile buộc chung với lá Thì là và Bạc hà đi thăm người ốm sẽ mang lại sự hồi phục nhanh chóng. Một tách trà ướp Chamomile giúp làm dịu cơn đau và xua tan mệt mỏi. Riêng đối với các nhà vườn, họ có một niềm tin Chamomile sẽ bảo vệ những cây xung quanh nó khỏi bệnh tật cũng như  tăng sức sống cho những cây yếu ớt hơn.

      Chamomile ngày nay mang nghĩa Bình an, Thư thái, nhưng Energy in adversity - Kiên cường trước nghịch cảnh mới là ý nghĩa nguyên thủy của Chamomile. 





(Nguồn : Tổng hợp)

Thứ Bảy, 1 tháng 4, 2017

CARNATION - CẨM CHƯỚNG


CARNATION

(CẨM CHƯỚNG)





Xuất thân từ loài hoa dại mọc ở miền Nam châu Âu, được người Norman đưa về Anh quốc, và từ đó được nhân giống, lai tạo, để ngày nay chúng ta biết đến Carnation với phổ màu phong phú.
Tên khoa học của Carnation là  Dianthus caryophyllus – Hoa Caryophyllus thuộc họ Dianthus. Caryophyllus bắt nguồn từ Caro, gốc từ Latin nghĩa là thịt (liên tưởng từ màu sắc nguyên thủy của hoa). Dianthus lại bắt nguồn từ hai gốc từ Hy Lạp, Dios – Zeus và anthos – hoa. Loài hoa của Zeus, loài hoa rơi xuống từ thiên đường, Carnation thường là biểu tượng cho những gì cao quý, cho những cảm xúc đẹp, hôn nhân và tình yêu.
         Carnation màu hồng tượng trưng cho tình cảm thuần khiết, có thể dùng tặng mẹ hoặc cho tình yêu thủa ban đầu, I will never forget you - Anh sẽ không quên em. Carnation màu đỏ tượng trưng cho tình cảm mãnh liệt,My heart breaks - Trái tim tôi tan vỡ. Carnation màu trắng mang nghĩa Sweet and lovely - Ngọt ngào và đáng yêu. Nhưng đừng tùy tiện chọn đại một bông để bày tỏ tình cảm. Bởi vì Carnation màu vàng nói lên Disdain - Sự khinh bỉ, chán ghét, còn Carnation với vành tia nhiều màu sẽ mang hàm ý I cannot be with you - Một lời từ chối.




(Nguổn: Tổng hợp)










Thứ Bảy, 4 tháng 3, 2017

CANTERBURY BELLS - HOA CHUÔNG


CANTERBURY BELLS

(HOA CHUÔNG)




“Những chiếc chuông của nhà thờ Canterbury”, cũng chính là nguồn gốc tên gọi loài hoa này. Thành phố Canterbury, một thánh địa Anh giáo nằm ở Đông Nam nước Anh, nơi có nhà thờ Canterbury nổi tiếng với tiếng chuông được rung bởi hơn 20 chiếc chuông lớn.

Canterbury Bells được đặt vì hình dáng của hoa gợi nhớ đến những chiếc chuông được những người hành hương mang theo trên con đường đến lăng Thomas Becket – Tổng giám mục của Canterbury – Người đã bị ám sát ngay tại nhà thờ vì đã đấu tranh với hoàng gia để giành quyền lợi cho Kito giáo.

Những cây Canterbury Bells mọc cao khoảng 60-90cm, vào tháng 7 và tháng 8 sẽ cho ra những bông chuông nhỏ phủ khắp thân cây.


Có lẽ vì mối liên hệ với tấm lòng chân thành của những người hành hương, Canterbury Bells đã trở thành biểu tượng của Constancy - Đức tinlòng kiên định. Bên cạnh đó, Cantebury Bells còn được dùng với ý nghĩa sự biết ơn chân thành.




(Nguồn: Tổng hợp)





Thứ Bảy, 25 tháng 2, 2017

CAMELLIA - HOA TRÀ

CAMELLIA
(HOA TRÀ)





             Camellia được đặt theo tên nhà truyền giáo – nhà thực vật học - Georg Kamel, người đã mang loài hoa này về châu Âu từ Đông Á vào khoảng đầu thế kỷ 18. Nhanh chóng, Camellia được trồng trong các nhà kính và trở thành  loài hoa ngoại nhập của thú chơi xa xỉ.
Đến giữa thế kỷ 19, Camellia là loài hoa được săn lùng nhiều nhất. Người dân dưới thời Nữ hoàng Victoria say mê vẻ đẹp của Camellia. Camellia hiện diện trong các buổi tiệc đêm, trang trí các phòng khiêu vũ và phòng hòa nhạc, tỏa sắc hồng trên những mái tóc vàng, hay phô bày độ trắng không tì vết trên những mái tóc nâu đen. Các quý cô chỉ tham gia vũ điệu sau khi đã cài một đóa Camellia trên ngực, và rất lấy làm hãnh diện nếu trong bó hoa mình được tặng có mặt Camellia. 
Được mệnh danh là Nữ hoàng mùa Đông, vì suốt những tháng Đông âm u, Camellia vẫn nở, mang lại ánh sáng vui tươi. Những bông hoa ngọt ngào và đầy kịch tính, nổi bật trên nền lá xanh bóng, là một biểu trưng cho vẻ đẹp nữ tính, cho tình yêu và sức mạnh liên kết số phận. 
Nếu một người đàn ông tặng cho người phụ nữ bông Camellia, đó là thông điệp: My destiny is in your hands - Em đang nắm giữ số phận của tôi.







(Nguồn: Tổng hợp)

Chủ Nhật, 12 tháng 2, 2017

BASIL - HÚNG QUẾ



BASIL
(HÚNG QUẾ, É QUẾ)





Người Hy Lạp cổ đã gắn loài hoa này cho một biểu cảm không mấy dễ chịu  Hate - Sự thù ghétRủi ro liền kề.
Hoa Basil có một cánh môi và một cánh kép, hình dáng nhọn của cánh kép khiến họ liên tưởng đến vua của các loài rắn trong truyền thuyết – Basilisk – cũng chính là nguồn gốc tên của loài cây này. Basilisk có thể giết chết đối phương chỉ với một ánh nhìn, nên người ta đã ví von “to have the eyes of a Basilisk” khi nói đến “sự thù ghét”.  Người ta còn hình dung ra rằng, loài bọ cạp thường trú ẩn dưới những chậu Basil, và nếu để một cành Basil nhỏ dưới một chậu cây sẽ cho ra đời một con bọ cạp.
Đến thế kỷ 16, loài cây có mùi thơm và vị ngọt này được đưa về trồng tại Anh, và nhanh chóng trở thành một gia vị ưa thích. Sau này, có lẽ vì sự ưa thích đó, ý nghĩa của loài hoa được biến đổi thành Tình yêu.

Nhưng dù sao, ý nghĩa vẫn nên bắt đầu từ nguồn gốc. 


(Nguồn: Tổng hợp)







Chủ Nhật, 29 tháng 1, 2017

ANEMONE - CỎ CHÂN NGỖNG, THU MẪU ĐƠN


ANEMONE
(CỎ CHÂN NGỖNG, THU MẪU ĐƠN)



Loài hoa mỏng manh này có nguồn gốc từ vùng  Cận Đông và Địa Trung Hải, được đưa về Anh Quốc từ thế kỷ 16. Vào mùa xuân, Amenone trải dài rực rỡ trên những sườn đồi ô liu với sắc màu trắng, đỏ, tím, hồng. Cái tên Anemone bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp - Anemos (xem hình) nghĩa là ‘gió’, bởi vì những cánh hoa mỏng manh này chỉ mở ra trong gió nhẹ, và nhanh chóng lụi tàn, tựa như hơi thở của gió.
Theo truyền thuyết Hy Lạp, Aphrodite, Nữ thần tình yêu và sắc đẹp, say mê sắc đẹp của chàng thanh niên Adonis. Chẳng may (cũng không hẳn là rủi ro, mà theo lời đồn, đã có sự nhúng tay của sự ghen tuông), trong một chuyến đi săn, Adonis bị lợn rừng húc chết. Khi Aphrodite quay về thì đã quá muộn, đau đớn, nàng bế Adonis trên tay, dùng rượu thần nhỏ xuống máu chàng, từ đó mọc lên những bông hoa đỏ thắm, Anemone.
Một truyền thuyết khác lại kể rằng, nữ thần Bình minh Eos cùng với thần Chiêm tinh Astraeus sinh ra các thần gió: Boreas- Thần gió Bắc, Eurus- Thần gió Đông, Notus- Thần gió Nam, Zephyrus- Thần gió Tây. Thần gió Tây Zephyrus yêu thích tiên nữ Anemone. Nữ thần của các loài hoa, vì ghen ghét với sắc đẹp của Anemone đã biến nàng thành một loài hoa chỉ nở khi xuân về. Chính vì vậy mà Zephyrus dần dần lãng quên nàng. Boreas, trước đây không chiếm được trái tim nàng, nay thỏa sức vuốt ve, suồng sã. Cho nên Anemone chỉ cần trở gió lạnh là nhanh chóng lụi tàn.
Cho dù là truyền thuyết nào, Anemone cũng chỉ mang cùng ý nghĩa, đó là Forsaken - Bị bỏ rơi, tình yêu ngắn ngủi, không kết quả.




 (Nguồn: Tổng hợp)